Bài Đọc Chúa Nhật VI Phục Sinh – 01.05.2016

SachLeRomaBài Đọc Chúa Nhật VI Phục Sinh – 01.05.2016

Bài đọc 1:

Thánh Thần và chúng tôi quyết định : Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
Hồi ấy, có những người từ miền Giu-đê đến An-ti-ô-khi-a dạy các anh em rằng : “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ.” Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.
Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau :
“Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a. Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây : Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này : là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”

Đáp ca:
Đ.Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài !

Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài. Đ.

Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,
Người cai trị muôn nước theo đường chính trực
và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Đ.

Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.
Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta !
Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người ! Đ.

Bài đọc 2:
Thiên Thần chỉ cho tôi thấy Thành Thánh từ trời mà xuống.
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
Tôi là Gio-an, đang khi tôi xuất thần, thì một thiên thần đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên. Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.

Tung hô Tin Mừng:
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy.” Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng:
Thánh Thần sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo : ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.”
 

Thánh Giuse Lê Đăng Thị (1825-1860)

Cac_Thanh_Tu_Dao_Viet_Nam

Giuse Lê Ðăng Thị, Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Ðội, bị xử giảo ngày 24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/10.

Giuse Lê Đăng Thị sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Quy, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức Cai đội. Lớn lên anh cũng theo nghề của cha, xin nhập ngũ và phục vụ trong quân đội nhà vua. Một thời gian sau, anh được thăng Chưởng vệ trông coi lính ở Hà Tĩnh, rồi được dời vào Nghệ An. Tại đây, anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.

Ngày 15.12.1859, Vua Tự Đức ra chiếu chỉ bắt tất cả các quan có đạo đó. “những quan nào có đạo , dù thành thực bỏ đạo cũng phải truất chức. Những ai không tố giác, hoặc chứa chấp trong nhà mình, cũng bị trừng phạt”. Nhà vua còn bắt tất cả các quan quân phải bước qua Thánh Giá trước khi ra trận đánh giặc Tây. “Ai không bỏ đạo sẽ bị giải ngũ, bị khắc chữ tả đạo vào má và phát lưu”.

Theo lời khuyên của quan trấn thủ, ông cai đội Lê Đăng Thị làm đơn xin xuất ngũ lấy cớ bệnh tật. Tuy nhiên, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt ngày 29.1, cùng với một số bạn đồng ngũ khác và bị giải về Quảng Trị. Ông vui vẻ nhận mình là cai đội và là Kitô hữu.

Cuối tháng hai, ông cai Lê Đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến cuối tháng mười mới thi hành. Từ đó ông được đưa về giam ở khám đường Huế. Trong một lá thư gửi về cho vợ, ông viết: “Anh nghĩ rằng chúng ta không còn gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn đang và sẽ yêu thương nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con mỗi ngày”.

Suốt thời gian trong tù, dù còn trẻ trung sung sức, nhưng trước những cực hình dã man, ông đã ngã bệnh. Chia sẻ với các bạn tù, Ông lo lắng nói: “Tôi không rõ Chúa có cho tôi sống đến ngày tử đạo không. Tôi sợ bệnh tật làm tôi chết sớm hơn. Than ôi ! Chắc vì tội tôi, nên Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy”.

Một linh mục đã đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một thày giảng cũng lén vào trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ngày 24.10.1860, ông Cai bị dẫn đi hành hình. Viên quan đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo, và hứa xin vua ân xá, nhưng ông cai Thị quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như sau : “Lê Đăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được. Y bị kết án xử giảo cuối mùa thu”.

Tại pháp trường An Hòa (Huế), ông Cai kính cần qùy trên chiếc chiếu cầu nguyện. Một linh mục đứng lẫn trong đám dân chúng ra dấu và giải tội lần cuối cho ông. Sau đó, ông kêu lớn tiếng: “Vạn phúc! Vạn phúc! Tôi sắp được tử đạo”. Lý hình quấn một sợi dây vào cổ ông cai đội, rồi chia ra hai bên kéo thật mạnh cho tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín hữu Phủ Cam tổ chức lễ an táng đông đảo tại xứ mình. Hiện nay hài cốt vị tử đạo còn được lưu giữ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế – Huế.

Lạy Thánh Giuse Lê Đăng Thị, xin cầu cho Cộng Đoàn chúng con

Chúc Mừng Tân Ban Điều Hành Ca Đoàn Cecilia

11149593_954927557873043_8975348037466907447_o

Nhiệm kỳ 2016-2018

Ca trưởng:  Nguyễn Hùng Hậu

Đoàn trưởng:  Trần Ngọc Tuyền

Đoàn phó nội vụ:  Nguyễn Văn Hải

Đoàn phó ngoại vụ: Nguyễn Thành Nguyên

Trưởng Ban Văn Nghệ và Phụng Vụ: Tâm Như

Trưởng Ban Sinh Hoạt: Nguyễn Mỹ

Đại diện giới trẻ: Trần Đức Huy

Xin Chúa chúc lành, thêm ơn và gìn giữ anh chị em cũng như gia đình trong bình an, để anh chị em có thể chu toàn trách nhiệm tốt đẹp này.

56 CÁCH SỐNG LÒNG TƯ BI

Thưa anh chị em,, trong tháng Ba, tôi đã gợi ý 35 cách sống lòng nhận hậu trong năm Thương Xót. Và trong những tuần tới tôi tiếp tục gợi ý thêm 56 cách để sống lòng nhân từ trong Năm Thánh này. Mỗi người chúng ta hãy chọn ngẫu nhiên một điều và tập sống hoàn thiện nó.
1. Chống lại cám dỗ chế nhạo, mỉa mai người khác; nó đi ngược lại
với lòng nhân từ. “Ôi, lạy Thiên Chúa, hãy bảo vệ môi miệng con; hãy
canh giữ miệng lưỡi con!” (Tv 141,3)

  1. Hạn chế quyền sở hữu: chia sẻ mọi vật với những người đang cần chúng.
    3. Thăm hỏi những người đơn côi, ngay cả những người trong bà con,
    bạn bè, lối xóm… Có thể có những người mình đã xúc phạm họ.
    4. Viết ra những lời tha thứ. Cho dầu không gửi chúng đi được, thì
    nhúng chúng vào nước thánh, cầu nguyện với Đức Giêsu xin tha thứ cho
    đôi bên, rồi đốt đi hoặc chôn chúng xuống đất.
    5. Tập cách cầu nguyện lớn tiếng điều này: “Lạy Chúa của con, xin
    hãy chúc lành cho (nói tên người làm khổ mình) và xin thương xót con!”
    6. Lên kế hoạch hành hương đến những nhà thờ trong vùng; cố gắng
    làm theo cách sống khăn nhân từ giống Chúa Giêsu ‘đón tiếp những người
    xa lạ’.
    7. Thực hành một điều tốt, giúp ích cho một người mà mình không
    thích hay đã làm hại mình.
    8. Quan tâm đến cách cư xử của mình hiện thời. Có làm gì để tự đề
    cao mình… mà làm cho người khác buồn không? Có cãi nhau, phê bình, chỉ
    trích nặng nề cho thỏa mãn cơn nóng giận của mình mà làm chạm tự ái
    người khác không? Có nói quá lời đụng chạm đến những thành viên trong
    gia đình, bè bạn, hoặc những người ta chỉ tiếp xúc qua bài vở, sách
    báo… những người gặp những điều kiện khó khăn hơn ta không?
    9. Quảng đại để người khác giúp mình; những người mà họ mong được
    thực hiện nghĩa cử giúp người.
    10. Nếu không muốn mình là gánh nặng cho người khác, hãy luôn nhận ra
    sai lỗi của mình và xin lỗi người khác.
    11. Hãy tham gia những cuộc quyên góp trong giáo xứ để giúp đỡ cho
    những người nghèo khổ, thiếu thốn.
    12. Dành thì giờ để cầu nguyện và suy ngẫm về một tính tốt của người
    gây khó khăn cho mình. Cũng làm như vậy đối với các thành viên trong
    gia đình.

Thông tin trong tuần (24.04.2016)

tintuc

1/ Xin mời tất cả các thành viên trong các ca đoàn thuộc Trung Tâm St. Vinh Sơn Liêm tham gia tập hát cho đại lễ kết thúc Năm Thánh. Tạ ơn Chúa, chúng ta đã có một khởi đầu tốt đẹp. Xin cho chúng ta cũng làm rạng danh Chúa hơn nữa khi kết thúc.

2/  Tạ ơn Chúa, cuộc họp Tuyên úy đoàn kết thúc tốt đẹp. Một lần nữa xin cám ơn sự hy sinh phục vụ của tất cả các cá nhân, gia đình và Hội đoàn. Xin Chúa chúc lành và ghi nhận những tấm lòng quảng đại của anh chị em..

3/ Cử hành Bí tích khai sinh cho trẻ, ngày Thứ Bảy (30/04), lúc 10am. Xin quí phụ huynh chuẩn bị nến và áo trắng cho con trẻ.

4/ Xin anh chị em quảng đại ủng hộ Đoàn Thiếu nhi trong việc mua vé số và vé dự tiệc trong ngày của Mẹ.

5/ Sau tuần Tuyên Úy đoàn họp,giờ lễ trong tuần, trở lại bình thường.

6/ Xin các hội đoàn, lớp Giáo lý… sau khi sử dụng Hall, trả lại nguyên trạng như đã được sắp xếp hiện nay.

7/ Vườn Phục Sinh sẽ tiếp tục nhận đặt trước một số phần nữa, nhằm có tài chánh để tu bổ cho đài St Vinh Sơn Liêm và tổng thể Vườn.

Chúa Nhật V Phục Sinh – Năm C (24.04.2016)

bulletin

Bản Tin Hàng Tuần – Chúa Nhật V Phục Sinh – Năm C (24.04.2016)

[pdf-embedder url=”http://www.vinhsonliem.org/wp-content/uploads/2015/03/24.04.2016.pdf”]

Click bên dưới để download bản tin – Bulletin 24.04.2016:

Đại hội linh mục Tuyên úy đoàn 2016 đã bế mạc

Bế mạc Đại hội Linh mục Tuyên úy đoàn Việt Nam Úc Châu 2016

DSCF4828

Melbourne, sau giờ kinh sáng, Thánh lễ đặc biệt lúc 9 giờ 30 sáng Thứ Tư 20/4/16 tại Trung tâm Công giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm, được quý cha trong Tuyên Úy đoàn Việt Nam Úc châu từ khắp các tiểu bang đồng tế, để chuẩn bị bế mạc đại hội Linh mục Tuyên Úy đoàn thường niên 2016.

Mời xem hình

Thánh lễ do Linh mục Bùi Xuân Mỹ chủ tế cùng với các Linh mục Tuyên Úy đoàn bao gồm quý cha:

Linh mục Chu Văn Chi Sydney

Đức ông Nguyễn Minh Tâm Adelaide.

Linh mục Bùi Sơn Lâm Sydney.

Linh mục Bùi Xuân Mỹ Canberra.

Linh mục Nguyễn Minh Nguyên Brisbane.

Linh mục Vũ Trọng Tuyển Melbourne.(*)

Linh mục Trần Ngọc Tân Melbourne.

Linh mục Nguyễn Hữu Quảng Melbourne.( *)

Linh mục Hoàng Kim Huy Melbourne (*)

Trước khi cử hành mầu nhiệm Thánh, Linh mục chủ tế Bùi Xuân Mỹ Canberra, đã ngỏ lời cám ơn linh mục quản nhiệm và Cộng đoàn Công giáo Thánh Vinh Sơn Liêm Giuse Trần Ngọc Tân, đã có lòng quảng đại đón tiếp và phục vụ chu đáo anh em linh mục từ khắp các tiểu bang trên toàn nước Úc về họp. Trong phần chia sẻ lời Chúa, Linh mục Chu Văn Chi đã nói về nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã trao phó cho các linh mục, là được sai đi loan báo tin mừng, Cha cũng kể một câu chuyện về một nữ tù nhân bị giam trong ngục, vào đêm Chúa Phục Sinh đã hô vang lời: Alleluia và đã được các bạn tù cùng nhất loạt hô vang lời Alleluia. Sau đó cô bị đánh, khi cai ngục trả về lại xà lim, cô nói dù bị đánh đau, nhưng cô rất vui sướng vì đã loan báo được tin mừng đến nhiều người. Trong dịp này, cha cũng ngỏ lời cám ơn và xin mọi người hợp ý cầu nguyện cho anh em linh mục luôn hoàn thành sứ vụ mà Thiên Chúa trao phó.

Thánh lễ khai mạc đại hội đã được các Linh mục đồng tế chiều Thứ Hai 18/4/16.

Sau thánh lễ, một bữa ăn tối mừng họp mặt thật vui vẻ, và các linh mục đã có cuộc họp sơ khởi bàn về nghị trình cho đại hội thường niên của Tuyên Úy đoàn Linh mục Việt Nam Úc châu.

Sang ngày kế tiếp, đại hội đã được Đức Cha Vincent Nguyễn Văn Long, Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Melbourne, cũng là cố vấn của ban tuyên úy đến chủ tế lễ đồng tế lúc 5.30 chiều Thứ Ba, cùng dùng bữa và dự giờ họp với tuyên úy đoàn. Được biết, đại hội đã diễn ra trong ba ngày, kết thúc vào trưa thứ Tư 20/4/2016.

Thành Phần bầu cử TUD nhiệm kỳ 2016-2018 như sau:

Ban Đại Diện Tuyên Úy Đoàn Nhiệm Kỳ 2016-2018

  1. Chủ Tịch: Linh Mục Paul Chu Văn Chi – Sydney.
  2. Phó Chủ Tịch: Linh Mục Peter Bùi Xuân Mỹ – Canberra.
  3. Thư Ký: Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm – Adelaide.
  4. Thủ Quỹ: Linh Mục Giuse Trần Ngọc Tân – Melbourne
  5. Ủy Viên Truyền Thông: Linh Mục Anthony Nguyễn Hữu Quảng – Melbourne.
  6. Cố Vấn: Đức Cha Vincent Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá TGP Melbourne.

Đây là phiên họp cuối, đúc kết và kết thúc đại hội lúc 12 giờ trưa, sau bữa cơm trưa, các linh mục lưu luyến chia tay nhau ra về lại nhiệm sở. Trong tình thân ái, quý cha hết lời cám ơn đến cha quản nhiệm và cộng đoàn, nhất là các chị em trong các ban lo về ẩm thực và phục vụ. Nấu ăn đã ngon, trang trí đẹp mà còn có thêm chút hài hước, các cha sau các buổi họp được thưởng thức thêm niềm vui qua các món ăn trên thực đơn như: Nhà hàng Mã Lai, Nhà hàng Korean, Nhà hàng Thánh Vinh Sơn Liêm thật đặc biệt, dù “cơm đâu cũng gạo nhà này” qua các đầu bếp chị Cẩm, chị Trị, chị Vinh cùng các chị Thanh (Lý) hai chị Hải, chị Mây, Đinh Thanh, chị Hóa, hai chị Vân, chị Phúc, chị Sáng, Hà, vv. và xin Chúa chúc lành cho hết mọi người đã bằng mọi cách giúp đỡ cho đại hội.

(*) không đến kịp

Bài Đọc Chúa Nhật V Phục Sinh – 24.04.2016

SachLeRomaBài Đọc Chúa Nhật V Phục Sinh – 24.04.2016

Bài đọc 1:

Hai Tông Đồ tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
Hồi ấy, sau khi đã loan Tin Mừng cho thành Đéc-bê và nhận khá nhiều người làm môn đệ, ông Phao-lô và ông Ba-na-na trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói : “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.
Hai ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, rao giảng lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. Từ đó hai ông vượt biển về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.
Khi tới nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin.

Đáp ca: Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở  muôn đời.
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương.
Chúa nhân ái đối với mọi người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.
Đ.Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.

Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,
nói lên rằng : triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.
Đ.Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.

Để nhân loại được tường những chiến công của Chúa,
và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.
Triều đại Ngài : thiên niên vĩnh cửu,
vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
Đ.Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.

Bài đọc 2:
Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ.
Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.
Tôi là Gio-an, tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to : “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”
Đấng ngự trên ngai phán : “Này đây Ta đổi mới mọi sự.”

Tung hô Tin Mừng:
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng:
Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau.

 Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Khi Giu-đa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giê-su nói : “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.”

 

Kỷ Yếu 35 năm: Linh mục Vincent Lê Văn Hưởng

Linh mục Vincent Lê văn Hưởng

Trích theo bài viết “Một mảnh đời” của Ban Ðiều Hành và Ban Cố Vấn Hội Ðồng hương Phú Nhai, trong cuốn mừng Ngân Khánh Linh Mục 25 năm của Cha Vincent  Lê Văn Hưởng.

02 Cha HuongSơ lược tiểu sử

Cha sinh năm 1951 tại họ Đức Bà Thôn Bắc, một họ lẻ của giáo xứ Phú Nhai, Giáo phận Bùi Chu, miền Bắc Việt Nam. Con trưởng của gia đình ông bà Cố Lê văn Thiện, ông bà có tất cả 8 người con. Năm 1954 theo làn sóng người Công giáo di cư vào trong miền Nam. Gia đình ông bà định cư ở vùng Chí Hòa, Gia Định (sau này thuộc về Sài Gòn).  Hiện nay ông bà cố đã qua đời. Ông cố đã mất năm 1977, và bà cố đã mất ngày 26-4-1999 tại Úc.

Năm 1962, Sơ Hương là cô ruột đã giới thiệu cháu Hưởng lúc đó đã học xong bậc Tiểu học, cho cha Vũ Đình Trác. Cha Trác nhận làm con đỡ đầu, và gởi vào học Tiểu chủng viện Thánh Giuse. Đầu tiên học một năm ở Vũng Tầu, rồi chuyển về Sài Gòn. Sau khi học xong bậc Trung học, Thầy Hưởng được chuyển lên học ở Đại chủng viện Thánh Giuse và học suốt 4 năm tại đây. Thời gian từ 1973 đến 1974 Thầy được gởi đi giúp xứ tại nhà thờ Chí Hòa, lúc đó cha Đinh Huy Năng làm chính xứ. Trong thời gian này Thầy cũng được mời dạy học tại các trường Trung học tư thục Nguyễn Bá Tòng, và trường Trung học Hoàng Gia Huệ ở Giáo xứ Trung Chánh. Mặc dù thời gian rất bận rộn, Thầy cũng hoàn tất được chương trình Cử Nhân Hán Việt tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Năm 1975, cũng như bao nhiêu đại chủng viện khác, Đại chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn bị đóng cửa, và mọi chủng sinh phải trở về gia đình sinh sống. Thầy Hưởng được cha Vũ Đình Trác giúp đỡ vào học và làm trong ngành Đông Y châm cứu tại bệnh viện Saint Paul, Sài Gòn.

Năm 1980, Thầy Hưởng cùng ba người em vượt biển và tới được trại tỵ nạn Songkha, Thái Lan. Vào tháng 3 năm 1981, bốn anh em của Thầy được chính phủ Úc cho đi định cư tại  Melbourne. Trong hoàn cảnh đất lạ, quê người, Thầy Hưởng đã thay mặt cha mẹ, để lo cho các em ăn học, còn Thầy xin đi làm công nhân cho một hãng xe. Ngoài ra Thầy Hưởng còn giúp làm Thầy Trợ Úy cho Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể của Cộng đoàn Công Giáo Thánh Vinh Sơn Liêm.

Năm 1982, Đức Giám mục Thomas Frank Little đã nhận Thầy Hưởng vào Giáo phận, và gởi Thầy đi giúp xứ và học Anh văn tại xứ đạo Saint Mary ở vùng Ascotvale.

Năm 1983. Thầy được nhận vào học năm thứ 4, tại Đại chủng viện Corpus Christi, Melbourne. Tại đây cha đã hòan tất luận án Cử nhân Thần Học.

Ngày 17 tháng 8 năm 1985. Thầy Hưởng được thụ phong Linh mục tại nhà thờ chính tòa Saint Patrick, Melbourne, do Đức Tổng Giám mục Frank Little.

Đời Linh mục của cha Vincent Lê Văn Hưởng

Đời sống Linh mục của cha như áng mây to bay trên bầu trời, nay đây mai đó. Cha đã vâng lệnh Đấng Bề Trên của Địa phận, để như áng mây mang những cơn mưa Đức Tin xuống cho nhân gian ở khắp mọi nơi.

Thời gian 1985 – 1988, Cha làm phó xứ nhà thờ Holy Eucharist, vùng St. Albans South, rồi làm phó xứ họ đạo Saint Edmund, vùng Croydon.

Năm 1989, Cha phó tại Giáo xứ Saint Paul the Apostle vùng Endeavour Hills.

Thời gian 1990 – 1993, cha nhận trách vụ Quản nhiệm Trung tâm Vinh Sơn Liêm ở Flemington giúp đỡ Cộng đồng Công giáo Việt Nam vùng phía Tây Melbourne và Geelong, thay cho cha Bùi Đức Tiến đi học Tiến sĩ Giáo Luật tại Phi luật Tân.

Trong suốt 2 năm phục vụ tại Trung Tâm Vinh Sơn Liêm, Cha đã để lại nhiều cảm tình tốt và gương sáng cho giáo dân. Lòng đạo đức và nhiệt thành đã khiến cha phục vụ Cộng đoàn hết tình, hết sức mình vì Chúa. Chỉ hai năm thôi, nhưng cha đã để lại bao nhiêu kỷ niệm tốt cho Cộng đoàn

Thời gian 1993 – 1995, cha làm phó xứ Saint Peter ở vùng Clayton, kiêm nhiệm Tuyên Úy Bệnh viện Monash.

Thời gian 1996 – 1999, cha nhận lãnh nhiệm vụ làm cha chính xứ của 5 họ đạo phía Tây Geelon,  gồm: Saint John’s Winchelsa, Anglesea, Mount Moria, Iverleigh, và Bannockburn. Trong thời gian này cha có lẽ là người mục tử lái xe nhiều giờ nhất trong các cha Việt đang ở Úc, để đi thăm viếng và làm công tác mục vụ. Cha phải lái xe có đến cả ngàn cây số mỗi tuần để đi từ xứ đạo này đến xứ đao khác. Chính vì thế mà Cha đã bị tai nạn xe hơi, chấn thương sọ não, tưởng chừng như phải chết, và không bao giờ bình phục được. Ngày ấy sau khi được xuất viện về, người thì xanh mét, gầy gò, thế mà cha vẫn luôn suy nghĩ, và lo toan về những việc chưa thực hiện được cho các giáo xứ mà cha đang coi sóc. Nhờ ơn Chúa giúp và nhờ sự chăm sóc, động viên tinh thần của gia đình, cũng như lời cầu nguyện của mọi người, cha đã dần dần bình phục sức khỏe sau một năm dưỡng bệnh.

Thời gian 2000 – 2007, Cha lại được bài sai về làm chính xứ nhà thờ Corpus Christi, vùng Gleroy, Melbourne. Giáo xứ đông giáo dân có tới trên 7000 người, cộng thêm trách nhiệm lo cho trường tiểu học, trung học, nhà dưỡng lão, và các hội đoàn trong giáo xứ. Cha cố gắng tận tụy và vui vẻ lo chu toàn nhiệm vụ, mặc dù sức khỏe của cha không còn được như trước thời chưa bị tai nạn.

Thời gian 2008 – 2009, Cha được Đức Tổng Giám mục gọi về làm cha giáo tại Đại chủng viện Corpus Christi, Melbourne, nơi đào tạo các linh mục tương lai cho Giáo hội.

Từ năm 2010 cho đến hiện nay, Cha được bổ nhiệm làm Chánh xứ Thánh Damian, vùng Bundoora, Melbourne, và kiêm luôn bổn phận làm cha giáo tại Đại chủng viện Corpus Christi. Ngoài ra, Cha vẫn tiếp tục làm cha Linh hướng cho Hội Ái Hữu Đồng Hương Phú Nhai, Bùi Chu, Tiểu Bang Victoria kể từ ngày thành lập hội vào năm 1996 cho đến nay. Ngày 8-12 hàng năm, Cha dâng thánh lễ tạ ơn cho hội viên, nhằm ngày kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, mừng kính lễ quan Thầy của Hội.

Xin mượn lời viết của Linh mục Giuse Nguyễn Xuân Tường, dòng Phanxicô Viện Tu qua bài “Tâm tình với Cha”, trang 14, trong cuốn mừng Ngân Khánh Linh mục 25 của Cha Hưởng, để thay lời kết: … “ Qua những năm Cha làm việc mục vụ tại giáo phận Melbourne, đặc biệt khi Cha phục vụ tại Trung Tâm Vinh Sơn Liêm, tôi đã có dịp nghe nhiều về cách làm việc của Cha từ gia đình cũng như từ những người bạn của tôi. Họ rất quý mến Cha về tính khiêm tốn, giản dị, hăng say, hy sinh và tận tình với giáo dân, với cộng đoàn. Như là một tu sỹ, tôi liên tưởng tới Cha với hình ảnh một chủ chiên nhân lành, hy sinh và tận tuy với đoàn chiên. Cha đã không đánh bóng cho “cái tôi” của mình với những thành quả gặt hái trong cộng đoàn, thay vào đó Cha đã hòa mình với mọi người và mời gọi mọi ngườicùng chung tay xây dựng cộng đoàn mỗi ngày mỗi lớn mạnh trong đức tin và tình tương thân tương ái. Mặc dù bận bịu với nhiều công việc nhưng Cha không ngần ngại đến với giáo dân thăm hỏi và chia sẻ với họ”…

Cầu xin Thiên Chúa ban muôn hồng phúc xuống cho Cha trong suốt cuộc đời phục vụ cho tha nhân nơi trần thế này.

 

Kỷ Yếu 35 năm: Linh mục Quản Nhiệm tiên khởi – Giuse Bùi Đức Tiến

Cha TienSơ lược tiểu sử:

Linh mục Giuse Bùi Đức Tiến, sinh năm 1949 tại tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam. Di cư vào miền Nam năm1954. Cha là con thứ hai trong gia đình có mười anh chị em, hiện nay còn bẩy người (năm anh chị em ở Úc, một người em gái ở Mỹ và một người chị gái còn ở Việt Nam). Thân phụ của Cha Tiến đã qua đời tại Úc, nay chỉ còn lại bà cố đang sống với người em gái của cha ở vùng Preston. Hồi còn ở Việt Nam, Thầy đã theo học chương trình Triết và Thần học tại Đại chủng viện Long Xuyên. Sau thời gian đất nước bị đổi chế độ, các Đại chủng viện bị đóng cửa. Tháng 11 năm 1976, Thầy Tiến đã vượt biên và đến được Thái Lan, sau đó được nhận định cư tại Úc vào tháng hai năm 1977.

Năm 1978, Thầy được nhận vào Đại Chủng Viện của Địa phận Melbourne, và hoàn tất tại Học Viện Corpus Christi. Cha được thụ phong linh mục ngày 18-8-1979 tại Nhà thờ Chính tòa Saint Patrick của Melbourne. Đức Cha Thomas Frank Little, vị Tổng Giám Mục thứ VI của Giáo Phận Melbourne đã làm lễ đặt tay cho Cha.

Ngày 21-01- 1980, Cha đã được chỉ định coi sóc cho tất cả giáo dân Việt Nam đang cư ngụ vùng miền Tây và Tây Bắc thành phố Melbourne. Cộng Đoàn Công giáo Việt Nam được Cha thành lập, nhận thánh bổn mạng là Thánh Vinh Sơn Liêm. Văn Phòng Tuyên Úy đầu tiên đặt tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, số 46, đường Ballarat, vùng Maidstone. Sau đó văn phòng Tuyên Úy được dời về nhà thờ Thánh Brendan, số106 đường Wellington, vùng Flemington cho đến ngày 30-6-1985.

Vào thời gian ấy, Cha Tiến cư ngụ tại xứ đạo St. Brendan, vùng Flemington. Mỗi Chúa Nhật, cha dâng một lễ bằng tiếng Việt vào lúc sáng cho cộng đoàn. Nhưng, vì số đồng bào tỵ nạn được nhập cư ngày càng gia tăng, nên các nhu cầu về phòng ốc, chỗ thờ phượng của giáo dân Việt Nam cũng gia tăng, như: giờ lễ, giờ chầu, hội họp đoàn thể (Legio, ca đoàn, Thiếu Nhi Thánh Thể). Cho nên, Cha Tiến và những giáo dân lúc ấy đã nẩy sinh ý nghĩ là tìm mua một khu đất, rồi xin phép Địa phận làm nơi thờ phượng và sinh hoạt riêng cho người Việt Nam. Cộng đoàn đồng ý quyên góp. Số tiền do giáo dân ủng hộ đã được khoảng 150.000$00 ( một trăm năm mươi ngàn đồng).

Được sự chấp nhận của Đức Tổng Giám Mục Thomas Francis Little, từ đó Cộng đoàn có nơi sinh hoạt và thờ nguyện. Từ đó, Cha đã hỏi han, bàn bạc với mọi người trong Cộng Đoàn để cùng nhau tìm ra phương cách tốt đẹp nhất, hợp với túi tiền của những gia đình vừa tạm ổn định cư trú trên đất Úc này.

Sau một thời gian dài đi tìm kiếm đất ở vùng phía Broadmeadows, nhưng mọi người lại cho là quá xa, không tiện việc di chuyển cho những người phần lớn ở khắp miền Tây. Đa số muốn chọn một nơi làm trung tâm của miền Tây, Tây Bắc và gần City Melbourne. Cuối cùng, nhờ lời cầu nguyện, Cha và mọi người đồng ý mua Cricketers’ Arms Hotel Inn, số 95 Mt. Alexandre Road, vùng Flemington hiện nay và chúng ta đã sửa sang và biến thành Trung Tâm Công Giáo Thánh Vinh Sơn Liêm như ngày nay.

Ngày 1-7-1985, văn phòng Tuyên Úy được di chuyển về Trung Tâm thánh Vinh Sơn Liêm. Cơ sở Cricketers’Arms Hotel Inn này bao gồm hai tòa nhà. Khu Hotel có mười phòng ngủ trên lầu, và ở dưới là trung tâm sinh hoạt, ăn uống, văn nghệ. Tòa nhà thứ hai thì trên là Hall sinh hoạt, có thể chứa được khoảng 400 người, và phía dưới là chỗ bán bia rượu, có chỗ lái xe vào để mua bia rượu, và một chỗ đậu xe khoảng trên 100 chiếc.

Năm 1985, tiền mua Trung tâm lúc ấy là 500.000$00 (năm trăm ngàn đồng). Nhưng chúng ta chỉ có 150.000$00. Cộng với tiền sửa chữa để làm nhà nguyện, nơi sinh hoạt, chúng ta đã phải mượn ngân hàng một số tiền là 380.000$00 đồng.

Số tiền vay ngân hàng này, theo khế ước, sẽ phải trả trong vòng 20 năm, kể từ tháng 8 -1985 cho đến 8 -2005. Tiền phải trả mỗi tháng là 5.435$00 (năm ngàn, bốn trăm ba mươi năm đồng). Lãi xuất này sẽ thay đổi tùy theo trị giá đồng tiền. Chính vì thế mà sau một năm, số tiền cộng đoàn nợ ngân hàng, tức là tháng 7-1986, đã gia tăng lên 391.000$00 (ba trăm chín mươi mốt ngàn đồng).

Theo thư của Cha Tuyên úy gửi đến mọi người thuộc Cộng đoàn thánh Vinh Sơn Liêm, vào hai ngày Chúa Nhật 27-7-86 và 3-8-86, có 2 vấn đề mà Cha cũng như ban thường vụ Cộng đoàn, ban chấp hành các giáo khu phải suy nghĩ ngày đêm. Đó là do lãi suất nhà băng tăng lên trong khoảng đầu năm 1986, cho nên Cộng đoàn sau một năm, đã trả nợ đều đặn mà số tiền còn nợ nhà băng lại tăng thêm 11.000$00 (mười một ngàn đồng). Điều này thì bây giờ ai cũng hiểu, nhưng 30 năm về trước, đã có ai mua nhà đâu mà biết lý do tại sao trả nợ hàng tháng 5.435$00 đồng mà số tiền mượn lại không giảm?

Trích theo thư gửi của Cha Tuyên Úy: “Hiện nay, lợi tức của chúng ta hàng tháng có khoảng 6.000$00 như thế chúng ta vẫn có thể tiếp tục trả nợ mà không gặp một khó khăn nào. Chỉ có hai điều chúng ta cần suy nghĩ:

  1. Lợi tức kể trên có được là do sự đóng góp của toàn thể mọi giới qua Thánh Lễ Chúa Nhật và các công tác kinh doanh của Trung Tâm. (Công tác này không kéo dài lâu được vì chỉ có một số người tình nguyện làm mà thôi, chúng ta phải nghĩ đến việc thay đổi người hay trả lương đầy đủ, full- time).
  2. Tiền chúng ta đóng góp được dù nhiều, nhưng nhà băng lấy hết, thay vì phải chịu quá nhiều lời như thế, chúng ta chia nhau để chịu bằng cách cho Cộng đoàn mượn tiền không lấy lời trong khoảng thời hạn nào đó tùy hoàn cảnh gia đình.

Số tiền Cộng đoàn mượn được theo PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN có thể lên đến hơn một trăm ngàn đôla. Số tiền này được trả luôn cho nhà băng và như thế, mỗi tháng chúng ta sẽ không phải trả tới 5.435$00 trong khi lợi tức của chúng ta vẫn không giảm, tiền để dành được là tiền sẽ trả lại cho những người cho mượn”…

Tạ ơn Chúa. Sự phúc đáp của Cộng đoàn đã làm cho Trung tâm được phát triển theo như ý Chúa muốn. Chúng ta hết lòng ghi ơn các vị ân nhân là ông bà, cha mẹ, anh em của chúng ta và nhất là cha Tuyên Úy cùng các ông trong Ban Thường vụ Cộng đoàn, Ban chấp hành của các Giáo khu hay Hội đoàn trong thời gian bắt đầu lịch sử của Trung tâm Công Giáo Việt Nam Vinh Sơn Liêm thời ấy.

Từ đó Cộng Đoàn Thánh Vinh Sơm Liêm được lớn mạnh do sự hướng dẫn về phần thiêng liêng của Cha Bùi Đức Tiến, cùng sự cộng tác về phần vật chất lẫn tinh thần của các giáo dân trong cộng đoàn, đặc biệt là các ông trong ban Thường vụ của Trung Tâm, các ủy viên của các giáo khu, các đoàn thể của Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm.

Năm 1989 cũng là năm đánh dấu mười năm (1979 – 1989) trưởng thành của Cộng Đoàn Công Giáo Thánh Vinh Sơn Liêm. Cuốn kỷ yếu đầu tiên được ấn bản do sự góp công sức của Cha Bùi Đức Tiến, Cha Nguyễn Xuân Tiến (lúc ấy còn làm Thầy), sơ Mary Luscumb, Nguyễn minh Hoàng, Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Thế Phong, Hải Đăng, và của mọi người trong Cộng đoàn, đặc biệt là của anh chị Phạm Đình Toàn, và anh Nguyễn Công Thành.

HỆ THỐNG VÀ TỔ CHỨC CỦA CỘNG ÐOÀN ( 1980 – 1990).

Tổ chức các giáo khu 

Để hợp nhất muôn người nên một trong tình yêu của Thiên Chúa, và qua tình Mẹ mến yêu của Đức Trinh Nữ Maria, Cha muốn các gia đình trong Cộng đoàn Vinh Sơn Liêm cổ võ lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ qua những buổi đọc kinh chung hằng tuần tại các gia đình. Cha Bùi Đức Tiến khéo léo thu phục  nhân tâm của mọi người. Với tổng số 550 gia đình giáo dân vào năm 1989, Cha đã chia vùng Tây và Tây Bắc Melbourne thành 8 giáo khu lấy tên các Thánh làm bổn mạng, gồm: giáo khu Giuse, giáo khu Antôn, giáo khu Phanxicô Xavie, giáo khu Têrêsa, giáo khu Martinô, giáo khu Don Bosco, và đặc biệt một giáo khu đã chọn danh hiệu Đức mẹ làm Bổn mạng cho giáo khu, đó là giáo khu Nữ Vương.

  1. Giáo khu Giuse được thành lập vào ngày 1 tháng Giêng năm 1982, bao gồm các khu vực: Glenroy, Broadmeadows, Dallas, Coolaroo, Craigieburn, và Fawkner.
  2. Giáo khu Phêrô cũng được thành lập cùng năm 1982 với giáo khu Giuse và với bốn giáo khu khác nữa. Giáo khu Phêrô bao gồm những gia đình định cư ở vùng Northcote, Thornbury, Preston, Resevoir, Heidelberg, Lalor, Thomastown, Mill Park và Epping. Với sự tích cực làm việc ban chấp hành tiên khởi đã dần dần qui tụ được khoảng 75 gia đình Công giáo.
  3. Giáo khu An tôn được thành lập vào tháng 10 năm 1982, bao gồm 22 gia đình sống trong hai khu vực: Brunswick và Coburg.
  4. Giáo Khu Phanxicô Xavier vào thời kỳ 10 năm đầu thành lập của Cộng đoàn, phải nói được rằng, đây là giáo khu đông dân nhất và mạnh nhất vì đa số dân ta sống ở các tòa nhà cao ốc do chính phủ cho thuê. Giáo khu được thành lập ngày 23 tháng 10 năm 1982, bao gồm các gia đình tín hữu sống từ vùng Flemington cho đến vùng Niddrie.
  5. Giáo khu Têrêsa được chính thức thành lập ngày 1-12-1984. Sau 5 năm sinh hoạt số giáo dân gia tăng được 44 người (năm 1989).
  6. Giáo khu Martino. Giáo khu này cũng được thành lập vào năm 1982. Giáo khu mừng kính thánh bổn mạng vào ngày 3 tháng 1 hàng năm. Địa ranh của giáo khu bao gồm các vùng Footscray, Maidstone, Braybrook, Sunshine, St.Albans, Deer Park.
  7. Giáo khu Gioan Bosco, được tách ra từ giáo khu Martino vào ngày 18 tháng 10 năm 1986. Chọn thánh Don Bosco là quan thầy. Giáo khu mừng kinh lễ Thánh Bổn mạng vào ngày 31 tháng Giêng mỗi năm.
  8. Giáo khu Nữ Vương. Giáo khu này là một trong những giáo khu tiên khởi được thành lập vào năm 1982. Ngày mừng lễ bổn mạng của giáo khu vào ngày 1 tháng Giêng hàng năm, nhằm ngày kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Tổ chức các hội đoàn

Cha đã khuyến khích và giúp đỡ giáo dân thành lập các hội đoàn gồm: Hội Cố Vấn, Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội Phụ Huynh, Ca đoàn Babylon, ca đoàn chiều, ca đoàn Vô Nhiễm; Hội Legio Mariae gồm ba đơn vị trưởng thành: Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, và 3 đơn vị Thiếu niên: Đức Mẹ Dâng Con, Đức Mẹ Vô Nhiễm I và II.

Ngoài ra còn có Phòng Xã Hội, hội Kèn Đồng, nhóm Hồn Nhỏ, nhóm Tìm Hiểu Ơn Thiên Triệu. Nhóm tìm hiểu Ơn Thiên Triệu này đã giúp cho Giáo hội ngày nay được rất nhiều tu sĩ và linh mục. Chắc mọi người đều biết tên các cha, các sơ trong Cộng đồng Công giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm, đa số là được huấn luyện từ Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, Legio Mariae, và trong nhóm tìm hiểu ơn Thiên Triệu.

Về Thể Dục, Thể Thao thì Trung tâm Vinh Sơn Liêm có: Đội Cricket, đội bóng chuyền (Volley Ball), và đội Túc cầu (bóng đá, Soccer).

Nhưng cùng với sự trưởng thành ấy là sự chia tay với Cha Tiến. Năm 1990, Cha được gởi đi du học về ngành Giáo Luật, tại Royal and Pontifical University of Santo Tomas, Manila, Philippines. Tất cả mọi sinh hoạt cộng đoàn gồm: Cơ sở về vật chất Trung Tâm, sinh hoạt thuộc về tâm linh của các hội đoàn, đoàn thể, và các giáo khu đã được cha Vinh Sơn Lê Văn Hưởng kế tiếp, chịu trách nhiệm từ năm 1990, theo lệnh của Đức Tổng Giám mục Francis Little, Giáo phận Melbourne.

Năm 1992 Cha Tiến đã tốt nghiệp với văn bằng Tiến sĩ Giáo Luật tại nước Phi  Luật Tân. Cha Tiến trở về Úc, nhưng không còn phục vụ tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm nữa. Tháng 8, năm 1992. Cha được sai đi phục vụ với vai trò chánh xứ của nhà thờ St. John The Evangelist, vùng East Melbourne.

Năm 2010, Cha Tiến lại được bài sai đi làm chánh xứ của nhà thờ Our Lady of Perpetual Help Church. Số 14, đường Bedford, thuộc vùng Ringwood, VIC. 3134.

Hiện nay, Cha Tiến đang làm cha sở của nhà thờ Thánh Macartan, số 4 Drake Street, Mornington VIC 3931. Ngoài công việc làm cha sở, Cha còn kiêm nhiệm vai trò của vị Censor Deputatus (Kiểm duyệt các sách báo Công Giáo) của Tổng Giáo Phận; Thẩm Phán (với quyền Chánh Án) của Tòa Án Hôn Phối Miền: Tổng Giáo Phận Melbourne -Victoria và Tổng Giáo Phận Tasmania.

Đời Linh mục của Cha Tiến, được ví như chiếc tầu chở theo đầy Đức Tin và nghị lực, để loan truyền Lời Chúa đến cho muôn dân trên toàn cõi Địa phận Melbourne. Vào thập niên 1980 -1990. Sở thích của Cha trong những ngày được nghỉ hàng năm là đi theo tầu cứu vớt người vượt biển, hoặc đi tìm những người tỵ nạn bị hải tặc Thái Lan giam giữ trong đất liền. Thứ hai hằng tuần là ngày nghỉ của cha, ngoài việc về thăm gia đình cha mẹ, anh em, Cha thích ra bờ sông ngồi câu cá hanh. Cuối năm, Cha thường đi cắm trại với ca đoàn Babylon, Thiếu Nhi Thánh Thể, Legio Mariae. Nhưng từ khi tốt nghiệp văn bằng Tiến sĩ Giáo luật, Cha lại thích viết sách đạo. thuộc loại hướng dẫn Giáo Luật cho tu sĩ, giáo dân; sách Tin Mừng. Cha viết một cách đam mê, viết cho đủ mười cuốn như lòng cha mong ước. Những năm gần đây, Cha lại thích đi làm việc từ thiện vào những ngày nghỉ mỗi năm. Cha quy tụ các bác sĩ chuyên khoa về mắt trên toàn thế giới, để về chữa trị cho những người khiếm thị tại các vùng thôn quê nghèo của đất mẹ, quê hương Việt Nam dấu yêu.

Những giòng chữ này, như muốn nhắc nhở con cháu của chúng ta về những công ơn của vị Tuyên Úy đầu tiên của Cộng Đoàn Công Giáo Thánh Vinh Sơn Liêm, để mọi người giáo dân luôn cầu xin Thiên Chúa ban tràn đầy hồng ân, sức khỏe cho Cha trong đời sống linh mục, để tất cả mọi giáo dân người Úc, cũng như Việt được hưởng nhờ. r